Khi mà những tranh chấp lãnh thổ còn tiếp diễn sau vụ hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc đã có bước đi kiểu “nước đôi” ở Liên hợp quốc. Hôm 9/6, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới, khi Phó Đại sứ nước này tại LHQ, ông Vương Minh (Wang Min), đệ trình Tổng thư ký Ban Ki-moon tài liệu nêu quan điểm chính thức của Bắc Kinh về tranh chấp ở Biển Đông, cùng lời đề nghị chuyển văn bản này đến 193 nước thành viên.
Hành động quốc tế hóa trên đây không phải cho thấy sự thay đổi trong chính sách bất biến lâu nay của Trung Quốc - chỉ xử lý các mâu thuẫn, bất đồng tranh chấp lãnh thổ thông qua tham vấn và đàm phán song phương giữa các bên liên quan. Đơn giản là bởi ngay sau khi đệ trình lên LHQ, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh lên tiếng khẳng định: Bắc Kinh không chấp nhận cơ chế trọng tài phân xử tại LHQ. Vậy thì tại sao nước này lại có động thái trên?
Năm 2003, Ban chấp hành Trung ương ĐCS Trung Quốc cùng Quân ủy Trung ương đã chính thức thông qua học thuyết “Tam chủng chiến pháp” (3 kiểu đấu pháp chiến tranh), coi đây là nhân tố quan trọng trong chiến tranh thông tin. Theo học giả Timothy A. Walton thuộc công ty phân tích, nghiên cứu, tư vấn Delex, tác giả cuốn “Tam chủng chiến pháp của Trung Quốc (China’s Three Warfares) viết hồi năm 2012, thì chiến lược này gồm có 3 thành tố: Chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý. Chính 2 nhân tố sau đã là cơ sở nền tảng để Trung Quốc đưa tài liệu quan điểm ra LHQ.
Chiến tranh truyền thông, theo Walton, là một chiến lược được tạo lập nhằm gây ảnh hưởng, lèo lái dư luận quốc tế theo hướng ủng hộ ủng hộ Trung Quốc, đồng thời phủ nhận những luồng tư tưởng của đối thủ gây bất lợi cho Trung Quốc. Tài liệu quan điểm gửi ra LHQ là bước đi nhằm cô lập Việt Nam, trong bối cảnh đa số các quốc gia thành viên tại tổ chức lớn nhất hành tinh này đều không có lợi ích trực tiếp trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Về chiến tranh pháp lý, theo Walton, đây là cách sử dụng luật pháp trong nước và quốc tế nhằm tạo lập cơ sở pháp lý hậu thuẫn cho tuyên bố chủ quyền và các lợi ích của Trung Quốc. Trong văn bản đệ trình LHQ, Bắc Kinh đã “khéo léo” lựa trích, cắt cúp một số điều khoản nhất định của luật pháp quốc tế nhằm biện minh cho quan điểm của mình.
Thế nhưng, chính ở góc độ pháp lý này mà Bắc Kinh đã lộ ra các điểm yếu của mình. Khi mới hạ đặt, Trung Quốc cho là giàn khoan Hải Dương 981 nằm tại điểm cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý. Trong khi đó theo Công ước của LHQ về luật Biển (UNCLOS), vùng lãnh hải chỉ kéo dài 12 hải lý tính từ bờ (đường cơ sở) của một quốc gia ven biển. Trong tuyên bố hôm 6/6, Trung Quốc có ý “cải chính” lỗi sai này, khi nói rằng Hải Dương 981 được đặt trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc.
Lời khẳng định này cũng không có cơ sở pháp lý. Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp là nhằm tạo điều kiện cho quốc gia ven biển “thực thi kiểm soát cần thiết để: (a) Ngăn chặn sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, tài chính, di cư hay vệ sinh trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải”; (b) Trừng phạt việc vi phạm các luật và quy định trên đây, đã được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia đó. Kế đến, Trung Quốc cũng tìm cách “tung hỏa mù”, khi tài liệu quan điểm trên có nói là Hải Dương 981 cách Tri Tôn 17 hải lý, cách bờ biển Việt Nam từ 133-156 hải lý; nhưng quên mất rằng Việt Nam chưa bao giờ từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và rằng hành động chiếm đóng bằng vũ lực của Trung Quốc đối với quần đảo này không thể là cơ sở khẳng định chủ quyền.
Cuối cùng, phải thấy một sơ sót rất lớn trong tài liệu của Trung Quốc trình LHQ: Văn bản nói rằng vùng biển giữa quần đảo Hoàng Sa và bờ biển đất liền Việt Nam chưa được phân định. Hai bên chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Hai bên có quyền tuyên bố EEZ và thềm lục địa phù hợp với UNCLOS.
Trong trường hợp này, Trung Quốc phải tuân thủ các điều khoản của UNCLOS về vùng biển chồng lấn. Theo đó, Trung Quốc và bên tranh chấp phải tiến đến thỏa thuận điều khoản về vùng tranh chấp, cho đến khi một hiệp định về phân định. Trong quá trình này, không bên nào được thay phép nguyên trạng, sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Thế nhưng, rõ ràng việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đã “tố” Trung Quốc vi phạm các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Tựu chung lại, sau việc Trung Quốc đệ trình tài liệu quan điểm tới Tổng thư ký LHQ, các quốc gia thành viên và cộng đồng quốc tế, cần lưu ý đến những căng thẳng gia tăng ở Biển Đông và tác động của nó đối với an ninh khu vực. Những nước này nên đồng thuận rằng vấn đề cần được Hội đồng Bảo an để tâm.
Trung Quốc không được phép theo đuổi chiến tranh thông tin theo hướng “nước đôi”: Vừa đưa tài liệu ra LHQ để mô tả bản chất các tranh chấp, nhưng đồng thời lại không chấp nhận cơ chế phân xử trọng tài LHQ. Mỹ và Australia cần thúc đẩy HĐBA thảo luận; Nhật Bản và các cường quốc biển có lợi ích đối với việc duy trì ổn định ở Biển Đông cần tham gia vào tiến trình này.
Trung Quốc cần bị đẩy vào thế “không thoải mái” theo các hướng: họ không chấp nhận nhận các thảo luận ở HĐBA; hoặc là sẽ phủ quyết một nghị quyết bày tỏ quan ngại về hành động trên Biển Đông. Đó sẽ yếu tố buộc Bắc Kinh tháo chạy khỏi những toan tính muốn sử dụng LHQ cho các mục đích tuyên truyền.
Nguồn tin: dantri.com.vn
THÔNG TIN LIÊN HỆ THANG TOÁN PHÁT TRIỂN Mọi thông tin cần biết quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ dước đây để được giải đáp những thắc mắt và các yêu cầu của Quý khách. TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Địa Chỉ:...Xem chi tiết...