PhatTrien.net

http://phattrien.net


Hoàng Sa: 40 năm sau

(Dân trí) - Hành động Trung Quốc hạ đặt giàn khoan vào vùng biển gần Hoàng Sa không chỉ là vấn đề liên quan đến chủ quyền mà là vấn đề thực thi luật biển quốc tế - đó là nhận định trong bài viết trên trang web một trường đại học có tiếng của Singapore của Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Khoa Luật Quốc tế của Học viện Ngoại giao.

Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Khoa Luật Quốc tế của Học viện Ngoại giao.
Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Khoa Luật Quốc tế của Học viện Ngoại giao.

Được sự đồng ý và hiệu đính về phần dịch của Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Anh, Dân Trí xin trích đăng bài viết trên chuyên trang Bình Luận của Trường Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế S.Rajaratnam (RSIS - thuộc Đại học Công nghệ Nanyang), Singapore, đề ngày 9/6/2014.

Mở đầu bài viết, Tiến sỹ Lan Anh cho biết: "Một tháng đã qua kể từ khi Biển Đông một lần nữa lại dậy sóng gần quần đảo Hoàng Sa. 40 năm trước, vào tháng 1 năm 1974, Hoàng Sa là nơi Trung Quốc đã sử dụng vũ lực bất hợp pháp chống lại Việt Nam Cộng hòa.

Để chiếm đóng bất hợp pháp Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hòa, Trung Quốc đã đánh đắm một tàu hải quân của Việt Nam Cộng hòa, gây hư hại 4 tàu khác, khiến 53 người Việt Nam thiệt mạng và 16 người bị thương. Việc sử dụng vũ lực này khiến cho Trung Quốc lần đầu tiên có được sự kiểm soát hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa."


Không chỉ là tranh chấp chủ quyền

Trong bài viết của mình, tiến sỹ Lan Anh cho biết, “chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa được thiết lập dựa trên các hoạt động thực thi chủ quyền của Nhà Nguyễn đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong lịch sử, ít nhất từ thế kỷ thứ 17, khi các quần đảo này còn là các vùng đất vô chủ. Trong thời kỳ mở rộng chế độ thực dân của phương Tây, chủ quyền đối với Hoàng Sa tiếp tục được Pháp, nước đô hộ Việt Nam, thực hiện.

Chủ quyền các quần đảo này sau đó được chuyển giao từ Pháp sang chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Geneva năm 1954 và sau đó được Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa khi miền Bắc và miền Nam thống nhất vào năm 1975. Việt Nam đã liên tục khẳng định yêu sách chủ quyền của mình bằng cách phản đối các hoạt động do Trung Quốc tiến hành ở Hoàng Sa.”

Tuy nhiên cũng theo tiến sỹ, “mặc dù chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa có cơ sở pháp lý vững chắc, nhưng Trung Quốc vẫn khẳng định họ có chủ quyền “không thể tranh cãi” đối với quần đảo này. Trung Quốc từ chối thừa nhận có tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo và từ chối thảo luận vấn đề chủ quyền với Việt Nam trong các cuộc đàm phán song phương.” Tiến sỹ nhận định, Trung Quốc “cũng sẽ không chấp nhận đưa tranh chấp chủ quyền lên một tòa án hoặc trọng tài quốc tế.”

Tiến sỹ Lan Anh cho rằng, “hành động khiến cho quần đảo Hoàng Sa trở thành điểm nóng mới nhất trên Biển Đông là việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nước sâu Hải Dương-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần quần đảo Hoàng Sa.”

Tiến sỹ khẳng định: “thoạt đầu, các lập luận về việc hạ đặt giàn khoan có thể khiến dư luận hiểu nhầm đây là lập luận về chủ quyền đối với Hoàng Sa. Tuy nhiên, khi nhìn sâu hơn, vụ việc này thực chất liên quan đến việc thực thi luật biển quốc tế.”

Khoảng cách địa lý không phải là vấn đề

Theo tiến sỹ Lan Anh, Đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nước sâu Hải Dương-981, là một cồn cát nhỏ, rộng 1,6km2, không có khả năng cho con người cư trú và không có đời sống kinh tế riêng. Vì vậy, theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, Tri Tôn là đảo đá và chỉ có thể có vùng lãnh hải 12 hải lý.

Theo thực tiễn của các quốc gia trên thế giới, trong phân định ranh giới biển, đảo Tri Tôn và các đảo khác thuộc Hoàng Sa sẽ phải giảm hiệu lực để nhường hiệu lực lớn hơn cho đất liền do chiều dài của đường bờ biển của các đảo nhỏ này ngắn hơn nhiều so với đường bờ biển đất liền của Việt Nam. Tức là đường phân định biển sẽ nằm rất gần với Tri Tôn hoặc thậm chí khoanh vùng cho đảo này chỉ có 12 hải lý.

Trung Quốc và Việt Nam đã tuân thủ nguyên tắc này khi đàm phán phân định ranh giới biển. Trong phân định Vịnh Bắc Bộ, hai nước đã nhất trí giảm hiệu lực của Bạch Long Vĩ, một đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, nằm trong Vịnh Bắc Bộ xuống còn 25%, tương đương với 15 hải lý. Hiệu lực này được áp dụng ngay cả khi Bạch Long Vĩ là một đảo có có diện tích 2,33km2 và có dân cư sinh sống ổn định.

Tuy nhiên, do chưa có thỏa thuận về phân định ranh giới cho Hoàng Sa, lập luận rằng giàn khoan nằm gần với Hoàng Sa hơn là bờ biển Việt Nam là không tạo ra cơ sở pháp lý cho Trung Quốc. Giàn khoan đã được hạ đặt trái phép ở khu vực Trung Quốc không có quyền đơn phương tiến hành các hoạt động như vậy.

Việc hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc vi phạm DOC

Tiến sỹ Lan Anh nhận định: “Cơ sở thực sự mà Trung Quốc đưa ra yêu sách đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không phải là dựa trên vùng đặc quyền kinh tế từ Hoàng Sa, mà từ đường lưỡi bò mà Bắc Kinh đã vẽ ra trên bản đồ Biển Đông. Mặc dù không đưa ra bất kỳ tài liệu chính thức nào để minh chứng cho yêu sách này, không đưa ra bất kỳ cơ sở pháp lý nào theo luật quốc tế, Trung Quốc vẫn đang sử dụng bản đồ đường lưỡi bò để yêu sách các quyền đối với toàn bộ các nguồn tài nguyên thiên nhiên của vùng nước và đáy biển bên trong đường lưỡi bò, thậm chí ngay cả khi các tài nguyên này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác.”

Theo tiến sỹ Lan Anh, Trung Quốc phải dựa vào đường lưỡi bò để yêu sách bởi sự thực là khu vực có tiềm năng giàu dầu lửa và khí đốt ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam đều nằm ở bên ngoài các khu vực mà Trung Quốc có thể yêu sách quyền chủ quyền dựa theo luật biển quốc tế. Vì vậy, Trung Quốc đã quyết định phớt lờ luật biển quốc tế và khẳng định tuyên bố chủ quyền của mình dựa theo bản đồ đường lưỡi bò, chiếm tới 85% Biển Đông.


Tiến sỹ phân tích, theo quy định của luật biển quốc tế, hai nước Trung Quốc và Việt Nam phải có nghĩa vụ pháp lý để nỗ lực đạt được thỏa thuận tạm thời, có tính thực tiễn cao. Luật biển quốc tế cũng đặt ra trách nhiệm đối với Trung Quốc và Việt Nam, theo đó, không bên nào được phép có bất kỳ hành động đơn phương gây nguy hiểm hay phương hại đến việc đàm phán để đạt được thỏa thuận phân định biển cuối cùng.

Các tòa án quốc tế đã phán quyết rằng trong các “vùng có các yêu sách biển chồng lấn”, việc một nước cố gắng khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên bằng cách khoan là trái luật, bởi hành động đơn phương như vậy sẽ làm thay đổi mãi mãi hiện trạng và vì vậy gây nguy hiểm hoặc phương hại đến việc đàm phán về một thỏa thuận phân định ranh giới biển cuối cùng.

Trong các cuộc thảo luận với ASEAN về một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông mang tính ràng buộc về pháp lý, Trung Quốc luôn luôn khẳng định cần phải áp dụng đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) năm 2002. Tuy nhiên, hành động đơn phương khoan dầu của Trung Quốc là sự vi phạm rõ ràng các điều khoản của DOC, trong đó có quy định các bên phải kiềm chế thực hiện các hành động sẽ làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp.

Kết thúc bài viết của mình, Tiến sỹ Lan Anh bày tỏ hi vọng “Trung Quốc sẽ sớm hiểu ra rằng bắt nạt các nước láng giềng, vi phạm luật quốc tế không phải là cách hành xử của một cường quốc có trách nhiệm trên trường quốc tế.”

Vũ Quý (dịch)

Nguồn tin: Tổng hợp

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây